Sinh sản ở bò sữa

Ảnh hưởng của stress lạnh lên năng suất sinh sản bò sữa

Điều kiện môi trường tối ưu là cần thiết để gia súc đạt được tiềm năng di truyền. Chi phí trực tiếp của môi trường dưới mức tối ưu là rất lớn khi chi phí đó liên quan tới sức khỏe, thiệt hại do chết và không đạt được sản lượng (SL) sữa tối ưu hay tiềm năng di truyền về SL sữa được quan tâm đối với bò sữa. Có rất ít nghiên cứu về stress lạnh đối với bò sữa khi so sánh với stress của khí hậu nóng. Cũng có nhiều nghiên cứu về stress lạnh đối với bò thịt hơn so với bò sữa. Quản lý bò sữa thường xây dựng các thiết bị mà những thiết bị đó có thể bảo vệ gia súc khỏi mùa đông lạnh giá và việc quản lý cũng ít được quan tâm về ảnh hưởng của thời tiết lạnh lên SL sữa.

 

 

 

Nhiệt độ trung bình đối với bò Holstein xấp xỉ 280F - 680F. SL sữa giảm chậm hơn khi nhiệt độ xuống dưới mức dao động này so với trên dao động này. Mặc dầu giảm không nhanh chóng, thiệt hại 3-9lbs sữa mỗi ngày là một tổn thất nhiều khi nó có thể được ngăn cản. Cái gì là lý do đối với việc giảm SL sữa dưới 280F? dưới mức này ở vùng lạnh gia súc phải sinh ra nhiều nhiệt trao đổi hơn để duy trì sự ổn định nhiệt. Tăng lượng nhiệt trao đổi là cần thiết cho gia súc duy trì nhiệt độ cơ thể ổn định. Bò sữa có khả năng tăng độ dày của da và lông bao phủ trong thời kỳ lạnh của năm khi so với thời tiết ấm. Bò có mức dinh dưỡng tốt có ít vấn đề với thời tiết lạnh hơn so với đàn có mức dinh dưỡng thấp hơn. Khả năng của bò sữa chịu đựng được nhiệt độ lạnh cũng bị ảnh hưởng bởi chuồng trại, tuổi, giai đoạn vắt sữa, dinh dưỡng, thích nghi với khí hậu, lông bao phủ và tập tính. Bảng 1 là ví dụ của sự khác nhau ở nhiệt độ tới hạn thấp hơn đối với bò phụ thuộc vào một số yếu tố ở trên.

Bảng 1 - ước lượng nhiệt độ tới hạn thấp hơn đối với bò 

Điều kiện môi trường

Nhiệt độ tới hạn thấp hơn (0F)

Lông dài 0,30 inch lúc cho nhịn đói

Lông dài 0,3 inch lúc cho ăn ở mức duy trì

Lông dài 0,3 inch khi cho ăn đầy đủ

Lông bao phủ mùa hè hay mùa mưa

Lông bao phủ mùa thu

Lông bao phủ mùa đông

Lông bao phủ trong mùa đông rất lạnh

64

45

30

59

45

32

18

Thức ăn ăn vào

Thức ăn ăn vào tự nguyện liên quan ngược với nhiệt độ môi trường. Nó tăng nhẹ trong điều kiện lạnh, nhưng bị giảm trong phạm vi 280F và 00F. Nhiều thí nghiệm cho thấy khả năng tiêu hoá dạ cỏ giảm trung bình 0,2% đối với giảm 10C ở nhiệt độ môi trường dưới vùng nhiệt độ trung bình của gia súc. Bảng 2 là một ước lượng của duy trì, thức ăn ăn vào và SL sữa đối với bò sữa tiếp xúc với cả nhiệt độ nóng và lạnh.

 Bảng 2: Những thay đổi ước lượng ở mức thu nhận thức ăn duy trì và sữa đối với bò tiếp xúc với các nhiệt độ khác nhau 

Nhiệt độ

Duy trì % của 680

Ăn vào (lbs)

Sữa (lbs)

-4

14

32

50

68

86

104

151

126

110

100

100

111

132

46

44

41

40

40

37

22

44

55

60

60

60

51

26

Hành vi

ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ tới hạn, gia súc phải sinh ra nhiệt trao đổi nhiều hơn để duy trì nhiệt độ cơ thể của chúng. Như có thể nhìn thấy ở bảng 1, nhiệt độ tới hạn có thay đổi. Người ta đã quan sát thấy rằng một số thời tiết tổn hại đến sức khỏe bò sữa nhất có thể là bão tuyết đầu mùa đông ở những bang đồng bằng trước khi gia súc làm quen được với thời tiết lạnh (Ví dụ: Bão tuyết tháng 10 năm 1997). Những thay đổi về hành vi của gia súc cũng đã được quan sát thấy đối với những gia súc bị stress lạnh, những gia súc này thậm chí còn rời bỏ những dãy tránh gió và nằm co lại để tăng mật độ gia súc, đặc biệt là khi không có chất đệm nền chuồng.

Sinh sản ở khí hậu lạnh

Ngoài SL sữa thấp hơn, hiệu quả sinh sản thấp hơn cũng đã được báo cáo đối với bò sữa trong những tháng mùa đông. Hầu hết các nghiên cứu là về ảnh hưởng của thời tiết lạnh lên bò đực trong chương trình phối giống tự nhiên. Những sự khác biệt về vitamin A và caroten cũng đã được báo cáo ở các đàn bò sữa trong những tháng mùa đông mà điều đó có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi và thai ở bò cái.

Sản lượng sữa ở thời tiết lạnh

Khi tổng kết những thí nghiệm nghiên cứu quan tâm về nhiệt độ lạnh tới hạn lên sản lượng sữa, điều quan trọng để quan tâm là chuồng trại chung hay thiếu những nơi trú ẩn và các điều kiện quản lý mà gia súc đã tiếp súc. Trong các nghiên cứu, các tác giả đã báo cáo rằng, khi SL sữa giảm 3-9lbs, các điều kiện môi trường ít được đề cập, nhưng một loạt các điều kiện đã được đưa ra. (A) mức thức ăn, (B) tốc độ gió, (C) bức xạ, độ ẩm và lượng mưa, (D) loại nền chuồng, (E) lạnh đột ngột, (F) thời gian lạnh kéo dài, (G) sinh sản và mùa vụ. Bò sữa Holstein giảm nhẹ ở nhiệt độ 14-180F nếu không có yếu tố độ ẩm và gió. Bảng 3 so sánh bê, bò thịt và bò sữa với các SLsữa khác nhau. Những sự so sánh này được thực hiện ở trong một chuồng đóng kín không có yếu tố gió. 

Bảng 3: Ước lượng nhiệt độ tới hạn thấp hơn đối với bò 

Gia súc

Mô tả

Nhiệt độ tới hạn thấp hơn

Bò sữa

Bò sữa

Bò sữa

Bò sữa

Bò thịt

Bò thịt 900 lb.

Cạn sữa và có chửa

17lb. sữa mỗi ngày

43lb. sữa mỗi ngày

69lb. sữa mỗi ngày

900lb duy trì

Mới sinh

1 tháng tuổi

Tăng trọng 1,8-8,3lbs/ ngày

7

-11

-26

-40

-6

48

32

-33

Trong một thí nghiệm với dê sữa khi nhiệt độ giảm từ 680F xuống 300F, SL nhiệt ở gia súc tăng 18-46% và lưu lượng máu tuyến vú giảm 63-70%. Không có lý do để tin rằng sự giảm này ở lưu lượng máu tuyến vú không xuất hiện ở những bò sữa bị stress lạnh.

Chuồng trại đối với stress lạnh

Các nhà quản lý trang trại bò sữa phải quan tâm cả lợi nhuận về SL và giá cả khi lựa chọn dạng chuồng trại đối với gia súc sản xuất của họ trong khí hậu lạnh. Stress lạnh thường có thời gian ngắn hơn so với stress nóng, nhưng người ta xem những giai đoạn ngắn này của gió và độ ẩm lại nguy hiểm hơn so với stress nóngổtTong nghiên cứu và trong thực tế đã có sự thay đổi xảy ra trong việc cải biến môi trường nhốt đối với những gia súc bị stress nóng. ở những vùng stress lạnh, sự thay đổi chậm hơn nhiều. Sự lựa chọn chuồng trại và sự thay đổi môi trường liên quan đến việc quyết định chỉ nên bảo vệ gia súc khỏi các vấn đề nghiêm trọng (chết) hay nâng cao năng suất của chúng. Bảo vệ bò sữa khỏi gió mạnh và độ ẩm sẽ giúp sử dụng bức xạ mặt trời sẵn có để làm khô phân và các gia súc khác ở nhiệt độ dưới 250F. Bò có khuynh hướng tụ tập lại cùng nhau trong điều kiện khí hậu gió, lạnh. Đây là cố gắng của chúng để bảo tồn nhiệt độ cơ thể. Nếu có đủ chất đệm nền chuồng sẽ không khuyến khích chúng tụ tập khi điều kiện thời tiết xấu xảy ra.

Có chắn gió hoặc đóng kín một phần chuồng đối với bò sữa ở khí hậu lạnh là một sự bảo đảm. Mặc dầu che mát được sử dụng ở khí hậu nóng để giảm bức xạ mặt trời trong những ngày nóng đã được đề cập, lợi ích của việc che đậy trong khí hậu lạnh đối với việc giảm mất nhiệt bởi bức xạ hồng ngoại vào bầu trời đêm lạnh ở những đêm quang đãng gần đây đã được Hillman và cs (1996) quan tâm. Mặc dầu những số đo của họ được thực hiện với bò thịt ở điều kiện thời tiết vào tháng giêng ở Colorado, mất nhiệt do bức xạ hồng ngoại ở bò sữa là tương tự. Vào những đêm quang đãng lạnh lẽo, có quãng 9,5 BTU ft5 (hoặc nhiều hơn) nhiệt bị mất qua bức xạ bước sóng dài vào bầu trời đêm lạnh –180F và nhiệt độ không khí 270F nhiều hơn so với nhiệt bị mất khi có mái che phía trên ở cùng nhiệt độ.

Hãy xem xét ví dụ sau đối với một bò sữa 1600 pound. Một bò sữa với kích thước này có diện tích bề mặt khoảng 80 ft5, trong đó một nửa đối mặt với bầu trời lạnh ban đêm. Tiếp xúc với đêm tối 14,6 giờ vào 1 tháng giêng ở vĩ tuyến như Fort Collin, Colorado, ở cùng nhiệt độ không khí, con bò này sẽ mất 5.550 BTU/ngày (hoặc nhiều hơn) ở bầu trời lạnh quang đãng so với có mái che bên trên khi cùng nhiệt độ không khí. Sự khác biệt này về năng lượng tương đương với năng lượng cần thiết để tạo ra 4,5 pound sữa, cung cấp năng lượng thuần cho sự tiết sữa với 3,5% mỡ sữa là khoảng 1.244 BTU/ngày như báo cáo của NRC.

Ví dụ trước là một đêm quang đãng không có mây che phủ. Vào những đêm đầy mây che phía trên không mang lại lợi ích nhiệt phóng xạ bởi vì nhiệt độ của bầu trời đầy mây cũng như nhiệt độ của không khí. Tuy nhiên, thậm chí trong những đêm đầy mây, che phía trên có thể mang lại lợi ích nhiệt nếu nó kết hợp với chắn gió. Chắn gió sẽ giảm mất nhiệt đối lưu vào những đêm có gió. Giảm tốc độ gió khi bò ở dưới mái che hay dưới bầu trời đầy mây là quan trọng hơn so với giảm tốc độ gió ở dưới bầu trời quang đãng, bởi vì mất nhiệt phóng xạ lớn hơn nhiều so với mất nhiệt đối lưu dưới bầu trời quang đãng. Bảng 4 cho thấy ảnh hưởng của gió lên bò sữa không vắt sữa. Trong trường hợp này không nhiều nhiệt lắm bị mất do đối lưu bởi vì nhiệt độ của lớp lông tơ đạt tới nhiệt độ không khí.

Bảng 4: ảnh hưởng của gió lên nhiệt độ tới hạn của bò sữa không vắt sữa

Bò sữa

Nhiệt độ tới hạn

Bò sữa cạn sữa (cạn sữa)

0,9MPH

9,2MPH

Thể trạng tốt

14

37

Thể trạng kém

43

61

Khi tiếp xúc với bầu trời đầy mây, tình huống lại ngược lại. Bề mặt làm mát bởi mất nhiệt bức xạ là thấp hơn bởi vì nhiệt độ bầu trời hay che phía trên là ấm hơn. Điều này đã làm nhiệt độ bề mặt của lớp lông bao phủ ấm lên, do đó tăng nhiệt độ khác biệt giữa lớp lông bề mặt và nhiệt độ không khí cho mất nhiệt đối lưu lớn hơn.


Nguyễn Văn Lý

Nguồn: vcn.vnn.vn
Ý kiến của bạn
Tên của bạn * :
E-mail * :
Tiêu đề * :
Nội dung * (Bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu):
 
Mã bảo mật * :   
   
Bài viết khác